my ramen

Bài này travelhome.vnết về món mỳ nước của Nhật Bản. Đối với các định nghĩa khác, xem Ramen (định hướng).

Đang xem: My ramen

Tên khácshina soba, chūka sobaLoạiMì nướcĐịa điểm xuất xứPhố người Hoa Yokohama, Nhật BảnVùng hoặc bangĐông ÁNhiệt độ dùngNóngThành phần chínhMì Trung Quốc, nước dùng làm từ thịt hoặc cá, rau hoặc thịtBiến thểNhiều biến thể, đặc biệt là theo vùng, với nhiều thành phần và món ăn kèm khác nhau

Ramen (拉麺 hoặc ラーメン  (lạp miến) , rāmen ? , IPA: <ɽaꜜːmeɴ> ) là một món mì của Nhật Bản. Món này bao gồm mì làm từ lúa mì của Trung Quốc được phục vụ với thịt hoặc (thỉnh thoảng) nước dùng làm từ cá, thường có hương vị với nước tương hoặc miso, và sử dụng các lớp phủ như thịt lợn thái mỏng (叉 焼, xá xíu), nori (rong biển sấy khô), menma, và hành lá.

Gần như mọi vùng ở Nhật Bản đều có biến thể ramen riêng, chẳng hạn như ramen tonkotsu (nước hầm xương heo) của Kyushu và ramen miso của Hokkaido. Mazemen là tên của một loại mì ramen không dùng với nước súp mì mà là với nước sốt (như xốt Yakiniku), giống như mì được dùng với tương chua ngọt.[2][3]

Mục lục

Xem thêm: Danh Sách Các Tour Du Lịch Mỹ & Canada, Du Lịch Mỹ, Tour Đi Hoa Kỳ 2020 Uy Tín Giá Rẻ

1 Lịch sử 2 Các loại 2.1 Sợi mỳ 2.2 Nước súp 2.3 Hương vị 2.4 Đồ bày kèm 2.5 Món thêm theo sở thích 3 Các biến thể địa phương 4 Các món ăn có liên quan 5 Các nhà hàng ở Nhật Bản 6 Bên ngoài Nhật Bản 6.1 Ramen ăn liền 7 Bảo tàng 8 Phiên bản đóng hộp 9 Trong văn hoá đại chúng 9.1 Tampopo 9.2 The Ramen Girl 10 Xem thêm 11 Ghi chú 12 Đọc thêm 13 Liên kết ngoài

Lịch sử < sửa | sửa mã nguồn>

Ramen có nguồn gốc từ đâu vẫn là một câu hỏi không rõ ràng. Nhiều nguồn cho rằng ramen có nguồn gốc từ Trung Quốc[4][5] nhưng người ta không rõ nó được du nhập vào Nhật Bản từ khi nào. Nhiều nguồn khác cho rằng nó được phát minh ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20.[6][7][8]

XEM THÊM:  Trại Đá Gà Tổng Hợp Các Nơi Nổi Tiếng Ở Miền Tây, 'Lò' Luyện Gà Chọi Nổi Tiếng Miền Tây

Từ nguyên học của “Ramen” vẫn còn là một chủ đề tranh cãi. Có giả thiết cho rằng ramen là cách phát âm trong tiếng Nhật của từ gốc tiếng Trung là lạp miến (拉麺),[9] nghĩa là “mì kéo sợi thủ công (bằng tay).” Giả thiết thứ 2 cho rằng nó xuất phát từ 老麺 (lão miến) còn một nguồn khác cho rằng ramen ban đầu là 鹵麺 (lỗ miến), mì được nấu trong nước sốt nhiều tinh bột. Giả thiết thứ 4 xuất phát từ 撈麵 (lao miến). Cho tới thập niên 1950, ramen vẫn được gọi là shina soba (支那そば, nghĩa là “soba Trung Quốc”) nhưng ngày nay chūka soba (中華そば, cũng có nghĩa là “soba Trung Quốc”) hoặc đơn giản là Ramen (ラーメン) thường gặp hơn, khi mà từ “支那” (shina, đọc âm Hán travelhome.vnệt là “chi na”) mang một ý nghĩa miệt thị.[10]

Đến năm 1900, các nhà hàng phục vụ ẩm thực Trung Hoa từ Quảng Châu và Thượng Hải đã phục vụ một món mỳ ramen với sợi mỳ đơn giản (cắt chứ không kéo bằng tay), một vài đồ ăn bày kèm, và nước dùng từ xương lợn và muối. Nhiều người Hoa sống tại Nhật Bản cũng kéo các xe bán đồ ăn mang đi, bán ramen và bánh bao và gyōza cho công nhân. Đến giữa thập niên 1900, những xe bán đồ ăn này sử dụng một loại còi phát nhạc gọi là charumera (チャルメラ, xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha charamela) để quảng cáo sự hiện diện của họ, một thói quen mà một vài nhà hàng vẫn giữ lại thông qua một cái loa và một đoạn thu âm được lặp lại. Đến đầu thời kỳ Shōwa, ramen đã trở thành một món ăn phổ biến khi ra ngoài ăn.

XEM THÊM:  Nhà Hàng Lotteria Núi Trúc : Hamburger, Gà Rán, Cơm Kẹp Ở Quận Ba Đình, Hà Nội

Theo chuyên gia ramen Osaki Hiroshi, cửa hàng ramen chuyên biệt đầu tiên được mở tại Yokohama vào năm 1910.[11]

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bột mỳ rẻ tiền nhập khẩu từ Hoa Kỳ tràn vào thị trường Nhật Bản. Cùng thời điểm đó, hàng triệu quân nhân Nhật đã trở về từ Trung Quốc và lục địa Đông Á từ sau Chiến tranh Trung-Nhật. Nhiều người trong số những người trở về đã trở nên quen thuộc với các món ăn Trung Quốc và sau đó mở ra các nhà hàng Trung Quốc trên khắp Nhật Bản. travelhome.vnệc ăn ramen, trong khi đó đang phổ biến, vẫn còn là một dịp đặc biệt mà yêu cầu phải ra ngoài đường để đi ăn.

Năm 1958, mỳ ăn liền được phát minh bởi Andō Momofuku, nhà sáng lập và là chủ tịch người Nhật Bản gốc Đài Loan của Nissin Foods, hiện được điều hành bởi người con trai Andō Kōki. Được mệnh danh là phát minh vĩ đại nhất thể kỷ 20 của Nhật Bản trong một cuộc thăm dò của Nhật Bản,[12] ramen ăn liền cho phép bất cứ ai có thể làm ra một phiên bản món ăn gần giống chỉ đơn giản bằng cách thêm nước sôi.

Bắt đầu từ thập niên 1980, ramen đã trở thành một biểu tượng văn hóa của Nhật Bản và đã được nghiên cứu trên toàn thế giới từ nhiều góc độ. Đồng thời, các phiên bản địa phương của ramen đã được đưa ra thị trường quốc gia và thậm chí có thể được sắp xếp theo tên khu vực của họ. Một bảo tàng ramen đã được mở cửa tại Yokohama vào năm 1994.[13]

Các loại < sửa | sửa mã nguồn>

Có một loạt các loại món ramen tồn tại ở Nhật Bản, với sự khác biệt về địa lý và nhà cung cấp cụ thể, ngay cả trong các phân loại chia sẻ cùng tên. Ramen có thể được phân loại bởi hai thành phần chính: sợi mỳ và nước dùng.

XEM THÊM:  phở thìn hà nội

Sợi mỳ < sửa | sửa mã nguồn>

Xem thêm: Nên Đánh Răng Trước Hay Sau Ăn Sáng, Giải Đáp Thắc Mắc Nên Đánh Răng Khi Nào

Hầu hết mì được làm từ bốn thành phần cơ bản: bột mì, muối, nước và kansui (かん水 , kansui ? ) (từ kansui (鹹水 , kansui ? , nước muối ) ) một loại nước khoáng có tính kiềm, có chứa natri cacbonat và thường có kali cacbonat, cũng như đôi khi một lượng nhỏ axit photphoric.

Kansui là thành phần phân biệt trong mỳ ramen, và có nguồn gốc từ vùng Nội Mông, nơi mà một số hồ chứa một lượng lớn các chất khoáng này và có loại nước được cho là hoàn hảo để làm món mỳ này. Làm mỳ với kansui khiến cho mỳ có một màu vàng cũng như một kết cấu vững chắc. Trứng cũng có thể được thay thế cho kansui. Một vài loại mỳ không làm từ trứng hay kansui và chỉ nên được sử dụng cho yakisoba, vì chúng có một cấu trúc yếu hơn và trở nên cực kỳ mềm khi nấu mỳ nước.

Ramen có nhiều dạng và độ dài sợi khác nhau. Nó có thể dày, mỏng, hoặc thậm chí chỉ mỏng như sợi ruy băng, cũng như có thể thẳng hoặc nhăn nheo.

Nước súp < sửa | sửa mã nguồn>

Nước súp của ramen nói chung là nước dùng nấu từ thịt gà hoặc thịt lợn, kết hợp với một loạt các thành phần như kombu (tảo bẹ), katsuobushi (vụn cá ngừ vằn phơi khô bào mỏng), niboshi (cá mòi bé phơi khô), xương bò, nấm hương (shiitake) và hành tây.

Hương vị < sửa | sửa mã nguồn>

truyện ngắn trà sữa cho tâm hồn
Kinh Nghiệm Đi Làng Văn Hóa 54 Dân Tộc Ở Đâu, Sống Ảo Tại Làng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam
Tác giả

Bình luận

LarTheme