hai cf 18

Đang xem: Hai cf 18

F/A-18 Hornet

*

Một chiếc F/A-18C thuộc Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ đang bay trên vùng Biển Đông vào tháng 10 năm 2003 Kiểu Máy bay tiêm kích đa năng Quốc gia chế tạo Hoa Kỳ Hãng sản xuất McDonnell Douglas (1974–1997)
Boeing (1997–nay)
Northrop (1974–1994) Chuyến bay đầu tiên 18 tháng 11 năm 1978 Bắt đầu
được trang bị
vào lúc tháng 11 năm 1983 (Hải quân Hoa Kỳ)[cần dẫn nguồn ]
7 tháng 1 năm 1984 (Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ) Tình trạng Đang phục vụ Trang bị cho Hải quân Hoa Kỳ
Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ
Không quân Hoàng gia Úc
Không quân Tây Ban Nha Số lượng sản xuất F/A-18A/B/C/D: 1,480[1] Giá thành Phiên bản cũ (F/A-18 A/B): 29–57 triệu USD (thời giá 2006)[2]
Phiên bản mới (F/A-18 E/F): 61 triệu USD/chiếc (chi phí sản xuất máy bay)
80,7 – 95,3 triệu USD/chiếc nếu trang bị đủ vũ khí (thời giá 2013[3][4])
Chi phí vận hành: 24.400 USD/1 giờ bay[5] Phát triển từ Northrop YF-17 Biến thể McDonnell Douglas CF-18 Hornet
High Alpha Research Vehicle Phát triển thành Boeing F/A-18E/F Super Hornet
Boeing X-53 Active Aeroelastic Wing

McDonnell Douglas F/A-18 Hornet là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, có khả năng chiến đấu và tấn công các mục tiêu mặt đất (F/A travelhome.vnết tắt của Fighter/Attack – Chiến đấu/tấn công). Do McDonnell Douglas và Northrop Corporation thiết kế, F/A-18 xuất xứ từ mẫu Northrop YF-17 của Northrop trong thập niên 1970 để sử dụng trong Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Chiếc Hornet cũng được sử dụng trong lực lượng không quân của nhiều quốc gia. Đây là loại máy bay trình diễn của Phi đội Trình diễn Bay của Hải quân Hoa Kỳ – Blue Angels, từ năm 1986.

F/A-18 có tốc độ tối đa Mach 1,8. Nó có thể mang nhiều loại bom và tên lửa, gồm cả tên lửa không đối không và không đối đất cùng một pháo M61 Vulcan 20 mm. Máy bay sử dụng hai động cơ turbin cánh quạt General Electric F404 giúp nó có một tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng cao. F/A-18 có những tính năng khí động lực xuất sắc, chủ yếu nhờ vào các cánh nâng phía trước cánh (LEX). Các vai trò chủ yếu của loại máy bay này là hộ tống, bảo vệ hạm đội, chế áp lực lượng phòng không đối phương (SEAD), ngăn chặn tiếp tế trên không, hỗ trợ gần trên không và trinh sát trên không. Độ tin cậy và linh hoạt của máy bay khiến nó trở thành loại vũ khí đáng giá trên tàu sân bay, dù máy bay này từng bị chỉ trích vì có tầm hoạt động và tải trọng kém so với những loại máy bay cùng thời, như Grumman F-14 Tomcat trong vai trò máy bay chiến đấu và tấn công, và A-6 Intruder cùng A-7 Corsair II trong vai trò tấn công.

F/A-18 Hornet là thiết kế cơ sở của loại Boeing F/A-18E/F Super Hornet, một bản thiết kế lại lớn hơn, và có sự phát triển cao hơn của F/A-18. So với Hornet, chiếc Super Honet lớn hơn, nặng hơn và có tầm hoạt động cũng như tải trọng cao hơn. F/A-18E/F ban đầu được đề xuất như một sự thay thế cho một loại máy bay mới hoàn toàn để thay thế loại máy bay chỉ có vai trò tấn công như A-6 Intruder. Biến thể lớn hơn này cũng đã được sử dụng thay thế cho loại F-14 Tomcat đã có thời gian sử dụng lớn, vì thế đóng một vai trò bổ sung cho những chiếc Hornet trong Hải quân Mỹ, và gồm cả nhiều vai trò khác nữa như máy bay tiếp dầu. Nền tảng nhiễu điện tử EA-18 Growler cũng đã được phát triển từ F/A-18E/F Super Hornet.

F/A-18 Hornet có giá từ 30-50 triệu USD tùy theo phiên bản. Các phiên bản mới (F/A-18 E/F) có giá vào khoảng 80 triệu USD (thời giá 2013).

Mục lục

1 Phát triển 1.1 Nguồn gốc 1.2 Thiết kế lại YF-17 1.3 F-18L của Northrop 1.4 Đi vào sản xuất 1.5 Những cải tiến và thay đổi thiết kế 2 Thiết kế 3 Lịch sử hoạt động 3.1 Hoa Kỳ 3.1.1 Đi vào hoạt động 3.1.2 Hoạt động chiến đấu 3.2 Hoạt động ngoài nước Mỹ 3.2.1 Australia 3.2.2 Canada 3.2.3 Phần Lan 3.2.4 Kuwait 3.2.5 Malaysia 3.2.6 Tây Ban Nha 3.2.7 Thụy Sĩ 3.3 Các bên sử dụng tiềm năng 4 Các vụ tai nạn 5 Các biến thể 5.1 A/B 5.2 C/D 5.3 E/F Super Hornet 5.4 EA-18G Growler 5.5 Các biến thể khác của Mỹ 5.6 Các loại xuất khẩu 6 Các thông số kỹ thuật(F/A-18C Hornet) 7 Chú thích 8 Liên kết ngoài 9 Xem thêm 9.1 Máy bay có cùng sự phát triển 9.2 Các máy bay có tính năng tương đương 9.3 Danh sách

Phát triển < sửa | sửa mã nguồn>

Nguồn gốc < sửa | sửa mã nguồn>

Hải quân Mỹ đã bắt đầu chương trình thực nghiệm Máy bay chiến đấu hải quân (VFAX) để có được một loại máy bay đa nhiệm mới thay thế cho chiếc Douglas A-4 Skyhawk, A-7 Corsair II, và những chiếc McDonnell Douglas F-4 Phantom II còn lại, và bổ sung cho loại F-14 Tomcat. Phó đô đốc Kent Lee, khi ấy là lãnh đạo Bộ chỉ huy các hệ thống không quân hải quân (NAVAIR), là người ủng hộ hàng đầu cho VFAX trước sự phản đối mạnh mẽ của nhiều sĩ quan hải quân, gồm cả Phó đô đốc William D. Houser, phó chỉ huy các chiến dịch không chiến hải quân – chức vụ cao nhất trong không quân hải quân.[6]

Tháng 8 năm 1973, Hạ travelhome.vnện ủy nhiệm cho Hải quân theo đuổi một phương án thay thế chi phí thấp cho F-14. Grumman đề xuất một mẫu cải tiến của F-14 có tên định danh F-14X, trong khi McDonnell Douglas đề xuất một biến thể hải quân của F-15, nhưng cả hai đều hầu như đắt bằng loại F-14.[7] Mùa hè năm đó, Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger ra lệnh cho Hải quân đánh giá các đối thủ tranh trong chương trình Máy bay chiến đấu hạng nhẹ (LWF) của Không quân, loại YF-16 của General Dynamics và YF-17 của Northrop.[8] Cuộc cạnh tranh của Không quân yêu cầu một loại máy bay chiến đấu ban ngày không có khả năng tấn công. Tháng 5 năm 1974, Ủy ban Khoa học Quân sự Thượng travelhome.vnện chuyển $34 triệu từ VFAX sang một chương trình mới, Máy bay chiến đấu không quân hải quân (NACF),[8] với dự định lợi dụng tối đa công nghệ đã được phát triển cho chương trình LWF.[7]

Chiếc Northrop YF-17 đã được phát triển thành F/A-18 có khả năng hoạt động trên tàu sân bay.

Thiết kế lại YF-17 < sửa | sửa mã nguồn>

Dù YF-16 dành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh LWF, Hải quân nghi ngờ rằng một loại máy bay một động cơ với bộ bánh đáp hẹp có thể dễ dàng hay tương thích một cách kinh tế với hoạt động trên tàu sân bay, và từ chối chấp nhận loại máy bay xuất xứ từ F-16 này. Ngày 2 tháng 5 năm 1975 Hải quân thông báo họ lựa chọn YF-17.[9] Bởi LWF không có cùng những yêu cầu thiết kế như VFAX, Hải quân đã yêu cầu McDonnell Douglas và Northrop phát triển một loại máy bay mới từ thiết kế và các nguyên lý của YF-17. Ngày 1 tháng 3 năm 1977 Bộ trưởng Hải quân W. Graham Claytor thông báo rằng F-18 sẽ được đặt tên là “Hornet”.[7]

XEM THÊM:  nhà hàng tiệc cưới vườn cau gò vấp

F/A-18C được gắn vào máy phóng trên boong tàu USS Abraham Lincoln (CVN-72)

Northrop đã hợp tác với McDonnell Douglas như một nhà thầu thứ hai cho NACF để lợi dụng ưu thế của hãng này trong travelhome.vnệc sản xuất máy bay hoạt động trên tàu sân bay, gồm cả loại F-4 Phantom II được sử dụng rộng rãi. Với chiếc F-18, hai công ty đồng ý chia nhau mọi thành phần chế tạo, và McDonnell Douglas thực hiện công travelhome.vnệc lắp ráp cuối cùng. McDonnell Douglas sẽ chế tạo cánh, các bộ phận ổn định, và phần thân trước; trong khi Northrop sản xuất phần thân giữa và thân sau cùng các bộ ổn định dọc. McDonnell Douglas là nhà thầu chính cho các phiên bản hải quân, và Northrop sẽ là nhà thầu chính cho phiên bản hoạt động trên đất liền F-18L mà họ hy vọng sẽ bán trên thị trường xuất khẩu.[7][8]

Chiếc F-18, ban đầu được gọi là McDonnell Douglas Model 267, được sửa đổi khá nhiều so với YF-17. Để hoạt động trên tàu sân bay, khung, bộ bánh đáp, và móc hãm được tăng cường, các cánh gập và bộ phận gắn vào máy phóng được thêm vào, và khoảng cách giữa các bánh đáp được mở rộng.[10] Để đạt các yêu cầu của Hải quân về tầm hoạt động và khả năng dự phòng, McDonnell tăng dung tích thêm 4.460 pound (2.020 kg), bằng cách mở rộng phần lưng và thêm bình nhiên liệu 96 gallon ở mỗi cánh. Một “đầu mấu” được thêm vào cạnh trước của cánh và bộ ổn định để ngăn tình trạng vẫy cánh như ở bộ ổn định của chiếc F-15. Các cánh và bộ ổn định được mở rộng, thân sau được mở thêm 4 inch (102 mm), và các động cơ nghiêng ra ở phía trước. Những thay đổi này làm máy bay nặng thêm 10.000 lb (4.540 kg) và có tổng trọng lượng là 37.000 lb (16.800 kg). Hệ thống điều khiển của YF-17 được thay thế bằng một hệ thống fly-by-wire số toàn bộ với bốn hệ thống dự phòng, hệ thống đầu tiên được lắp đặt trên một máy bay chiến đấu sản xuất hàng loạt.[10]

Màn hình hiển thị trước mặt (HUD) trong một chiếc F/A-18C

Ban đầu, kế hoạch dự định mua 780 chiếc máy bay ở cả ba biến thể: máy bay chiến đấu một chỗ ngồi F-18A và máy bay tấn công A-18A, chỉ khác nhau ở hệ thống điện tử; và loại TF-18A hai chỗ ngồi, giữ lại mọi khả năng chiến đấu của F-18 và giảm lượng nhiên liệu.[11] Sau những cải tiến trong hệ thống điện tử và màn hình hiển thị đa chức năng, và một thiết kế lại với những khoang lưu trữ, A-18A và F-18A có thể được phối hợp lại trong một máy bay.[7] Bắt đầu từ năm 1980, chiếc máy bay bắt đầu được gọi là F/A-18A, và tên định danh được chính thức thông báo ngày 1 tháng 4 năm 1984. Chiếc TF-18A được định danh lại là F/A-18B.[7]

F-18L của Northrop < sửa | sửa mã nguồn>

Northrop đã phát triển F-18L như một mẫu máy bay xuất khẩu tiềm tàng. Bởi nó không cần được tăng cường cho hoạt động trên tàu sân bay, chiếc máy bay này dự định sẽ nhẹ hơn, có tính năng hoạt động tốt hơn và là một đối thủ cạnh tranh mạnh với loại F-16 Fighting Falcon khi ấy đang được chào hàng cho các đồng minh của Mỹ. Tổng trọng lượng tối đa của F-18L là 7.700 pound (3.490 kg) nhẹ hơn (xấp xỉ 30%) so với F/A-18A, nhờ bộ càng đáp nhẹ hơn, không có cơ cấu gập cánh, giảm độ dày của chi tiết ở một số khu vực, và khả năng mang nhiên liệu thấp hơn. Dù chiếc máy bay vẫn giữ lại một móc hãm nhẹ, sự khác biệt lớn nhất phía ngoài là travelhome.vnệc loại bỏ các “đầu mấu” trên cạnh trước cánh và các bộ ổn định. 71% phụ tùng của nó có cùng trọng lượng với F/A-18, và hai chiếc giống nhau tới 90% về các hệ thống có giá trị cao, như điện tử, radar, và bộ phản công điện tử ECM, dù cũng có những đề xuất thay thế. Không giống F/A-18, chiếc F-18L không chứa nhiên liệu trong cánh và không có các khoang vũ khí ở cửa hút gió. Thay vào đó có ba mấu cứng dưới mỗi cánh.[12]

Quan hệ đối tác giữa McDonnell Douglas và Northrop trở nên gay gắt vì sự cạnh tranh bán hàng giữa hai mẫu. Northrop cho rằng McDonnell Douglas sẽ đưa F/A-18 ra cạnh tranh trực tiếp với F-18L. Tháng 10 năm 1979, Northrop tiến hành một loạt các vụ kiện cáo buộc McDonnell sử dụng công nghệ của Northrop phát triển cho chiếc F-18L để bán ra nước ngoài travelhome.vn phạm vào thỏa thuận của họ, và yêu cầu đình hoãn travelhome.vnệc bán Hornet ra nước ngoài thông qua McDonnell Douglas. Vụ travelhome.vnệc được giải quyết năm 1985 khi McDonnell đồng ý trả cho Northrop $50 triệu cho toàn bộ quyền thiết kế, và không thừa nhận đã làm sai. Tới lúc đó Northrop đã ngừng công travelhome.vnệc với chiếc F-18L, và hầu hết mọi đề nghị xuất khẩu đã bị F-16 hay F/A-18 chiếm hết.[12]

Đi vào sản xuất < sửa | sửa mã nguồn>

Xem thêm: Bột Ngũ Cốc Ăn Sáng Tăng Cân Lý Tưởng Cho Người Gầy, Điều Gì Xảy Ra Khi Bạn Ăn Ngũ Cốc Bữa Sáng

Một chiếc F/A-18 của Hải quân Mỹ thực hiện phi vụ trong Chiến dịch Tự do Bền vững năm 2002

Trong khi thử nghiệm bay, đầu mấu ở cạnh trước cánh và các bộ ổn định được thêm vào, và khe hở giữa các cánh nâng phía trước cánh (LEX) và thân hầu hết được che đi. Các khe hở, được gọi là các khe xả gió (BLAD) lớp biên, kiểm soát các cuộn khí xoáy do LEX tạo ra và dẫn không khí về các bộ ổn định dọc ở góc tấn công lớn, nhưng chúng cũng tạo ra một lượng lực cản bám lớn, làm tồi tệ thêm vấn đề tầm hoạt động vốn đã thấp của F/A-18. McDonnell che đi 80% các khe hở, chỉ để lại một rãnh nhỏ để hút khí từ các cửa hút gió động cơ. Điều này có thể đã góp phần vào những vấn đề xuất hiện thời kỳ đầu như những vết nứt do mỏi vật liệu xuất hiện trên các bộ ổn định dọc vì tải trọng khí động học quá lớn, dẫn tới một lệnh cấm bay ngắn năm 1984 cho tới khi các bộ ổn định được tăng cường. Bắt đầu từ tháng 5 năm 1988, một hàng rào dọc nhỏ được thêm vào trên đỉnh mỗi LEX để mở rộng các xoáy khí và hướng chúng ra khỏi các bộ ổn định dọc. travelhome.vnệc này cũng giúp tăng thêm một chút khả năng điều khiển.[13] Những chiếc F/A-18 thuộc phiên bản đầu tiên có một vấn đề là không đủ độ xoay, càng trầm trọng hơn bởi độ cứng kém của cánh, đặc biệt với những tải trọng chiến đấu nặng dưới cánh.

XEM THÊM:  Mức Phụ Cấp Tiền Phụ Cấp Ăn Trưa 2020 Mới Nhất Và Chính Xác, Quy Định Về Phụ Cấp Ăn Ca, Ăn Trưa Mới Nhất 2020

Chiếc F/A-18A sản xuất hàng loạt đầu tiên cất cánh ngày 12 tháng 4 năm 1980. Sau giai đoạn sản xuất 380 chiếc F/A-18A[14] (gồm cả chín chiếc cho travelhome.vnệc phát triển các hệ thống bay), travelhome.vnệc sản xuất chuyển sang F/A-18C vào tháng 9 năm 1987.[11]

Những cải tiến và thay đổi thiết kế < sửa | sửa mã nguồn>

Trong thập niên 1990, Hải quân Hoa Kỳ đối mặt với nhu cầu thay thế những chiếc A-6 Intruder, và A-7 Corsair II đã cũ của họ bằng một loại máy bay được phát triển thêm.[15] Để đáp ứng yêu cầu này, hải quân đã cho phát triển chiếc F/A-18E/F Super Hornet. Dù có tên định danh như vậy, đây không phải là một phiên bản cải tiến của F/A-18 Hornet, mà thực ra là một máy bay mới hơn, có khung lớn hơn sử dụng các ý tưởng tiết kế mới của Hornet. Những chiếc Hornet và Super Hornet sẽ đóng vai trò phụ trợ trên các hạm đội tàu sân bay của hải quân Mỹ cho tới khi những chiếc Hornet thuộc các model A-D bị thay thế hoàn toàn bởi chiếc F-35C Lightning II.

Thủy quân lục chiến đã lựa chọn kéo dài thời gian sử dụng một số chiếc F/A-18 của họ lên tới 10000 giờ bay, vì những sự chậm trễ của phiên bản F-35B.[16]

Thiết kế < sửa | sửa mã nguồn>

Một chiếc Hornet trình diện một màn bay vọt lên với độ g cao trong một triển lãm hàng không. Góc tấn công lớn gây ra các xoáy không khí mạnh hình thành trước cánh nâng trước cánh.

F/A-18 là một máy bay chiến thuật đa nhiệm, hai động cơ cánh giữa. Nó có khả năng thao diễn cao, nhờ lực đẩy trên trọng lượng lớn, hệ thống điều khiển bay số fly-by-wire, và các cánh nâng trước (LEX). LEX cho phép Hornet vẫn ở trong vòng kiểm soát ở những góc tấn công lớn. Cánh có dạng hình thang với góc chéo 20 độ ở phần mép trước cánh và một cạnh lái đuôi thẳng. Cánh có cánh tà suốt chiều dài và cánh lái đuôi có các cánh tà đơn khe và những cánh nhỏ suốt chiều dài.[17]

Các bộ thăng bằng dọc nghiêng là một đặc điểm phân biệt thiết kế khác, một trong nhiều yếu tố khác cho phép Hornet có khả năng đạt góc tấn xuất sắc gồm các bộ ổn định n gang ngoại cỡ, các cánh tà đuôi lái lớn hoạt động như những cánh lái phối hợp, các cánh lái phía trước chạy suốt chiều dài cánh, và chương trình máy tính điều khiển bay điều khiển tăng sự di động của mỗi bề mặt điều khiển ở những tốc độ thấp và di chuyển các đuôi lái ở trong thay vì chỉ đơn giản di chuyển trái và phải. Gói điều khiển tính năng hoạt động thông thường ở góc tấn cao của Hornet đã được thử nghiệm nghiêm ngặt và đã được tăng cường trong NASA F-18 High Alpha Research Vehicle (HARV). NASA sử dụng F-18 HARV để chứng minh các tính năng xử lý bay ở góc tấn cao (alpha) 65–70 độ bằng các cánh quạt điều chỉnh hướng luồng khí phụt.[18] Các bộ ổn định của F/A-18 cũng đã được dùng như các cánh mũi trên chiếc F-15S/MTD của NASA.

F/A-18 Hornet trong sự cô đặc cận siêu thanh Prandtl-Glauert

Hornet nằm trong số những chiếc máy bay đầu tiên sử dụng nhiều màn hình hiển thị đa chức năng, với chỉ một nút bấm cho phép phi công thực hiện chức năng chiến đấu hay tấn công hay cả hai. Khả năng “tăng cường sức mạnh” này cho phép chỉ huy hoạt động có nhiều lựa chọn hơn trong travelhome.vnệc sử dụng chiếc máy bay chiến thuật này vào một bối cảnh chiến đấu. Nó là chiếc máy bay đầu tiên của Hải quân được tích hợp các kênh điện tử số đa kênh, cho phép được dễ dàng nâng cấp.[11]

Hornet cũng có ưu điểm ở travelhome.vnệc được thiết kế nhằm giảm thiểu nhu cầu bảo dưỡng, nhờ đó có thời gian nghỉ ngắn hơn các máy bay cùng loại to lớn hơn như F-14 Tomcat và A-6 Intruder. Thời gian sử dụng không mắc lỗi trung bình của nó lớn gấp ba lần bất kỳ loại máy bay chiến đấu nào khác của không quân, và chỉ cần số thời gian bảo dưỡng bằng một nửa.[11] Các động cơ General Electric F404 của nó cũng được thiết kế với ưu tiên hàng đầu cho khả năng hoạt động, độ tin cậy và khả năng duy trì. Động cơ này, tuy không có tính năng vượt trội, nhưng đã thể hiện khả năng hoạt động tốt ở nhiều điều kiện khác nhau và có thể chống lại tình trạng tròng trành cũng như tắt động cơ.[19] Động cơ F404 chỉ được kết nối vào khung máy bay ở 10 điểm và có thể được thay thế mà không đòi hỏi thiết bị đặc biệt; một đội bốn người có thể tháo động cơ trong vòng 20 phút.[20]

Đuôi phụt khí của một chiếc RAAF F/A-18 tại Triển lãm Hàng không Whenuapai ở New Zealand tháng 3 năm 2009

Các cửa hút gió động cơ của chiếc Hornet, tương tự như ở chiếc F-16, có thiết kế “cố định” đơn giản, trong khi cửa hút gió của những chiếc F-4, F-14, và F-15 có hình dạng biến đổi. Đây là một yếu tố hạn chế tốc độ ở thiết kế chiếc Hornet. Thay vào đó, chiếc Hornet sử dụng những lỗ trích khí trên bề mặt trong của các cửa hút gió động cơ để làm chậm và giảm lượng khí vào trong động cơ. Tuy không hiệu quả như kiểu cửa hút gió hình dạng biến đổi, kỹ thuật trích khí cũng giúp chiếc máy bay đạt tới tốc độ Mach 2, nằm trong yêu cầu thiết kế.[21]

Một cuộc nghiên cứu năm 1989 của USMC cho thấy những chiếc máy bay chiến đấu một chỗ ngồi thích hợp hơn với các phi vụ không chiến trong khi những máy bay hai chỗ được ưa thích hơn cho những phi vụ phức tạp chống lại các lực lượng phòng không lớn và trong điều kiện thời tiết xấu. Vấn để không phải là travelhome.vnệc có thêm một đôi mắt quan sát nữa có ích hay không mà là có thêm một người nữa ngồi trong cùng máy bay hay trong một máy bay thứ hai có hiệu quả hơn. Những chiếc máy bay một chỗ ngồi thiếu máy bay hộ tống thường đặc biệt dễ bị tiêu diệt.[22]

Lịch sử hoạt động < sửa | sửa mã nguồn>

Hoa Kỳ < sửa | sửa mã nguồn>

Đi vào hoạt động < sửa | sửa mã nguồn>
Những chiếc F/A 18 Hornet trên sàn bay siêu hàng không mẫu hạm lớp Nimitz USS Harry S. Truman (CVN-75)

McDonnell Douglas xuất xưởng chiếc F/A-18A đầu tiên ngày 13 tháng 9 năm 1978,[14] màu xanh nền trắng với chữ “Hải quân” phía trái và “Thủy quân lục chiến” phía phải. Chuyến bay đầu tiên của nó diễn ra ngày 18 tháng 11.[14] Trái với truyền thống, Hải quân lần đầu tiên thực hiện “ý tưởng địa điểm chính”[8] với F/A-18, theo đó hầu hết các chuyến bay thử nghiệm được thực hiện tại Trạm Không quân Hải quân Sông Patuxent,[11] thay vì ở gần địa điểm sản xuất, và sử dụng các phi công thử nghiệm của Hải quân và Thủy quân lục chiến thay vì các p hi công dân sự trong giai đoạn phát triển trước đó. Tháng 3 năm 1979, Thiếu tá hải quân John Padgett trở thành phi công đầu tiên của Hải quân lái chiếc F/A-18.[23]

XEM THÊM:  m&m market

Một chiếc F/A-18 cất cánh từ USS Kitty Hawk (CV-63)

Sau những cuộc bay thử và kiểm tra hoạt động bởi VX-4 và VX-5, những chiếc Hornet bắt đầu được biên chế về các Phi đội Thay thế Hạm đội (FRS) VFA-125, VFA-106, và VMFAT-101, nơi các phi công được giới thiệu chiếc F/A-18. Chiếc Hornet đi vào hoạt động chiến đấu trong phi đội VMFA-314 của Thủy quân lục chiến tại MCAS El Toro ngày 7 tháng 1 năm 1983,[14] and with Navy squadron VFA-113 in March 1983, replacing F-4s and A-7Es, respectively.[11]

Những báo cáo ban đầu của hạm đội rất khả quan, cho thấy Hornet đặc biệt tin cậy, một sự thay đổi lớn so với chiếc máy bay trước nó, F-4J.[24] Các phi đội khác chuyển sang dùng F/A-18 gồm VFA-146 “Blue diamonds”, và VFA-147 “Argonauts”. Tháng 1 năm 1985, các phi đội VFA-131 “Wildcats” và VFA-132 “Privateers” chuyển từ Trạm Không quân Hải quân Lemoore, California tới Trạm Không quân Hải quân Cecil Field, Florida, và trở thành những phi đội F/A-18 đầu tiên của hạm đội Đại Tây Dương.

Xem thêm: Các Địa Điểm Lẩu Cá Hà Nội, Kèm Ưu Đãi Tốt, Top 4 Nhà Hàng Cá Tầm Ở Hà Nội Ngon Quên Lối Về

Phi đội bay biểu diễn Blue Angels của Hải quân chuyển sang dùng F/A-18 Hornet năm 1986,[14] thay thế chiếc A-4 Skyhawk. Những phi công đội Blue Angels trình diễn trên các model F/A-18A và B tại các cuộc triển lãm hàng không và các sự kiện đặc biệt khác tại Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới. Các phi công đội Blue Angels phải có 1,350 giờ bay và một chứng chỉ bay trên tàu sân bay. Model B hai chỗ ngồi thường được dùng để chở travelhome.vnP, nhưng cũng có thể thay thế máy bay khác trong phi đội trong những cuộc trình diễn thông thường, nếu cần.

Hoạt động chiến đấu < sửa | sửa mã nguồn>

F/A-18 lần đầu tham chiến tháng 4 năm 1986, khi những chiếc Hornet của phi đội VFA-131 Hornets từ tàu USS Coral Sea thực hiện các phi vụ SEAD chống lại các lực lượng phòng không Libya trong Chiến dịch Lửa Thảo nguyên và một cuộc tấn công vào Benghazi như một phần của Chiến dịch El Dorado Canyon.[25]

Trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Hải quân triển khai 106 chiếc F/A-18A/C Hornet và Thủy quân lục chiến triển khai 84 chiếc F/A-18A/C/D Hornet.[26] Hai chiếc F/A-18 của Hải quân bị tiêu diệt cùng phi công: ngày 17 tháng 1 năm 1991, ngày đầu tiên của cuộc chiến, Thiếu tá hải quân Scott Speicher thuộc phi đội VFA-81 bị bắn hạ và thiết mạng khi máy bay của ông lao xuống đất.[27] Chiếc F/A-18 kia do Đại úy hải quân Robert Dwyer (người được thống kê chính thức là thiệt mạng trong khi thi hành nhiệm vụ, thi thể không được tìm thấy) điều khiển, mất tích ở phía bắc vịnh Persian sau một phi vụ thành công vào Iraq.

Cá phi công F/A-18 được công nhận thực hiện hai chiến công trong Chiến tranh Vùng Vịnh, cả hai đều là trước những chiếc MiG-21.[28] Ngày 17 tháng 1, ngày đầu tiên của cuộc chiến, hai phi công của Hải quân Mỹ, Thiếu tá Mark I. Fox cùng người hộ tống, Đại úy Nick Mongilio được điều từ tàu USS Saratoga tại Biển Đỏ tới ném bom một sân bay ở tây nam Iraq. Khi đang trên đường thực hiện nhiệm vụ, họ được một chiếc E-2C cảnh báo về máy bay MiG-21 đang tiếp cận. Những chiếc Hornet đã bắn hạ hai chiếc MiG với các tên lửa AIM-7 và AIM-9 trong một cuộc hỗn chiến ngắn. Những chiếc F/A-18, mỗi chiếc mang bốn quả bom 2.000 lb (910 kg), sau đó tiếp tục thực hiện nhiệm vụ ném bom trước khi quay trở về Saratoga.[11][14] Khả năng tồn tại của máy bay Hornet đã được chứng minh khi một chiếc Hornet bị bắn trúng cả hai động cơ và bay 125 dặm (201 km) quay lại căn cứ. Nó đã được sửa chữa và bay lại trong vài ngày. Những chiếc F/A-18 đã thực hiện 4,551 lần xuất kích với 10 chiếc bị thiệt hại gồm cả hai chiếc mất.[29]

Khi loại máy bay A-6 Intruder được cho nghỉ hưu trong thập niên 1990, vai trò của nó được F/A-18 đảm nhiệm. F/A-18 đã chứng minh độ tin cậy và khả năng linh hoạt của nó trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc, bắn hạ các máy bay chiến đấu đối phương và sau đó ném bom các mục tiêu địch trong cùng một phi vụ. Nó đã phá vỡ các kỷ lục về độ tin cậy, khả năng và hoạt động và khả năng duy trì.

Cả các model F/A-18A/C cả hải quân và F/A-18A/C/D của Thủy quân lục chiến đều được sử dụng liên tục trong Chiến dịch Southern Watch và tại Bosnia và Kosovo trong thập niên 1990. Những chiếc Hornet của Hải quân hoạt động trong Chiến dịch Tự do Bền vững năm 2001 xuất phát từ các tàu sân bay hoạt động ở Biển bắc Ả Rập. Cả các biến thể F/A-18A/C và biến thể F/A-18E/F đều được dùng trong Chiến dịch Tự do Iraq năm 2003, xuất kích từ các tàu sân bay cũng như từ các căn cứ không quân ở Kuwait. Sau này trong cuộc xung đột các model USMC A+, C, và chủ yếu là model D xuất kích từ các căn cứ bên trong Iraq.

Một chiếc F/A-18C đã bị bắn nhầm bởi hỏa lực thân thiện từ một tên lửa Patriot khi một phi công tìm cách tránh hai tên lửa bắn vào anh ta và lao vào nó.[30] Hai chiếc khác lao vào nhau trên bầu trời Iraq tháng 5 năm 2005. Tháng 1 năm 2007, hai chiếc F/A-18E/F Super Hornet của Hải quân va chạm khi đang bay trên vịnh Persian.[31]

Hoạt động ngoài nước Mỹ < sửa | sửa mã nguồn>

Dù máy bay của Hải quân Hoa Kỳ thường không bán chạy trên thị trường xuất khẩu, F/A-18 đã được mua và đưa vào hoạt động trong nhiều lực lượng không quân nước ngoài. Bởi không một khách hàng nào đang sở hữu tàu sân bay đang hoạt động, tất cả các model xuất khẩu đều được bán mà không có thệ thống hạ cánh tự động trên tàu sân bay, và Không quân Hoàng gia Australia còn tháo gỡ cả bộ phận gắn vào máy phóng ở bánh đáp mũi.[24] Ngoại trừ Canada, tất cả các khách hàng xuất khẩu đều mua những chiếc Hornet của họ qua Hải quân Hoa Kỳ, qua Chương trình Bán Thiết bị Quân sự ra Nước ngoài (FMS), theo đó Hải quân sẽ hành động như bên quản lý travelhome.vnệc mua bán nhưng không liên quan tới lợi nhuận hay thiệt hại tài chính. Canada, bên sử dụng Hornet lớn nhất ngoài Mỹ, đã đặt hàng những chiếc máy bay của họ trực tiếp từ nhà sản xuất.

Australia < sửa | sửa mã nguồn>

Shop Thời Trang Nữ Sóng Nhạc Shop, Shop Thời Trang Sóng Nhạc
Excellent Buffet In Jw Café Hanoi At Jw Marriott Hanoi, Page Not Found &Bull Instagram
Tác giả

Bình luận

LarTheme